Sỏi tiết niệu là bệnh thường gặp và hay tái phát, do sự kết thạch của một số thành phần trong nước tiểu…
Các khối sỏi có thể gây đau, tắc đường tiết niệu và nhiễm khuẩn, rất nguy hại cho sức khỏe người bệnh.
Yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ bao gồm yếu tố nội sinh (bên trong cơ thể) và yếu tố ngoại sinh (môi trường). Sự kết hợp các yếu tố đó góp phần làm tăng nguy cơ tạo sỏi.
Bệnh sỏi đường tiết niệu hay xảy ra ở thận nhất, kế đó là sỏi niệu quản, sỏi bàng quang ít gặp hơn còn sỏi kẹt niệu đạo chỉ xảy ra ở đàn ông. Vì niệu đạo của đàn ông dài, sỏi khó thoát ra ngoài theo dòng nước tiểu.
Tuổi mắc sỏi niệu ở đàn ông trung bình từ 20 – 40 tuổi, còn phụ nữ lại từ 25 – 40 tuổi. Nguyên nhân được các chuyên gia y học cho rằng do có sự thay đổi về nội tiết tố nữ và tình trạng loãng xương gia tăng ở lứa tuổi mãn kinh.
Bên cạnh đó cần chú ý đến các yếu tố khác ảnh hưởng đến bệnh sỏi tiết niệu như chủng tộc, di truyền, bệnh béo phì, tăng huyết áp, cường tuyến cận giáp, các dị tật bẩm sinh đường tiết niệu, các bệnh lý gây tắc nghẽn đường tiết niệu…
Các yếu tố ngoại sinh dẫn tới hình thành sỏi tiết niệu bao gồm:
Địa dư, khí hậu và mùa:Sỏi niệu có liên quan khá mật thiết đến tình trạng khí hậu và thời tiết nơi sinh sống. Khi khí hậu trở nên nóng bức, mồ hôi ra nhiều và nước tiểu bị cô đặc làm cho các tinh thể muối trong nước tiểu bị bão hòa và dễ bị kết tủa tạo sỏi trong thận hoặc bàng quang. Việc phát bệnh sỏi niệu cũng liên quan mật thiết đến mùa. Mùa hè và mùa thu bệnh dễ mắc hơn mùa xuân và mùa đông. Việc uống nhiều thức uống chứa đường trong mùa hè cũng là nguyên nhân gây sỏi niệu. Ngoài ra, ánh nắng mặt trời là yếu tố làm tăng sản xuất vitamin D nội sinh, dẫn tới tăng calci niệu.
Uống ít nước(< 1200ml/ngày) làm tăng nguy cơ hình thành sỏi.
Chế độ ăn nhiều đạm động vật,ăn nhiều thức ăn đồ uống có hàm lượng calci cao làm tăng khả năng mắc bệnh sỏi tiết niệu.
Nghề nghiệp: Sỏi niệu có liên quan mật thiết đến nghề nghiệp của bệnh nhân. Những người làm việc ở môi trường nắng nóng như thợ luyện kim, công nhân xây dựng, thủy thủ, những người làm việc trí óc căng thẳng như bác sĩ, nhân viên văn phòng… dễ bị mắc bệnh hơn những người làm nghề lao động phổ thông.
Biểu hiện của bệnh
Biểu hiện lâm sàng của sỏi tiết niệu tương đối đa dạng, phụ thuộc vào vị trí sỏi.
Với sỏi thận và sỏi niệu quản
Đau vùng mạn sườn thắt lưng là triệu chứng hay gặp nhất chiếm trên 90% và là lý do chủ yếu khiến bệnh nhân đi khám bệnh. Đau có hai mức độ:
Đau cấp tính, điển hình là cơn đau quặn thận, cơn đau xuất hiện đột ngột sau lao động và vận động. Vị trí đau xuất phát ở vùng thắt lưng, tính chất đau là đau dữ dội từng cơn đau lan xuống vùng bẹn sinh dục không có tư thế giảm đau. Khi nghỉ ngơi hay dùng thuốc giãn cơ trơn thì đỡ đau.
Đau mạn tính, bệnh nhân luôn có cảm giác nặng nề, đau tức khó chịu vùng thắt lưng (một bên hoặc hai bên), tính chất đau tăng khi vận động. Loại đau này thường gặp ở bệnh nhân có sỏi thận mà sỏi gây bít tắc không hoàn toàn.
Ngoài ra, có thể gặp các biểu hiện khác như đái ra máu, đái ra sỏi (rất hiếm gặp nhưng có giá trị chẩn đoán), đái ra mủ (xuất hiện ở bệnh nhân thận ứ mủ), đái buốt, đái dắt, sốt…
Để chẩn đoán xác định cần dựa vào siêu âm, chụp Xquang thận – bể thận ngược dòng, chụp thận thuốc tĩnh mạch hoặc chụp cắt lớp vi tính.
Với sỏi bàng quang
Sỏi bàng quang xuất hiện do sỏi từ hệ tiết niệu trên rơi xuống bàng quang. Sỏi hình thành tại bàng quang do các dị vật như chỉ khâu, mảnh đạn, đầu sonde hoặc do quá trình ứ đọng nước tiểu ở bệnh nhân hẹp niệu đạo, u tuyến tiền liệt, chít hẹp cổ bàng quang, hẹp miệng sáo, túi thừa bàng quang, tổn thương cột sống tuỷ sống.
Biểu hiện lâm sàng nổi bật là tình trạng đái ngắt ngừng. Bệnh nhân đang đi tiểu đột nhiên tia tiểu tắc lại và đau vùng dương vật. Thay đổi tư thế lại có thể đái được.
Biểu hiện hay gặp thứ hai là đái dắt. Đái tăng lần về ban ngày do bệnh nhân đi lại vận động sỏi lăn trong bàng quang gây kích thích đi đái nhiều lần, nghỉ ngơi số lần đi tiểu giảm.
Ngoài ra có thể gặp đái buốt cuối bãi, đái đỏ cuối bãi.
Với sỏi niệu đạo: hình thành do sỏi từ bàng quang di chuyển ra hoặc hình thành trực tiếp tại các túi thừa niệu đạo. Biểu hiện chính là đái khó, đái rắt, đái buốt đầu bãi. Bệnh nhân có thể có bí đái cấp tính hoặc đái rỉ.
Biến chứng nào có thể xảy ra
Giãn đài bể thận và thận ứ niệu: Sỏi gây cản trở lưu thông của đường bài xuất nước tiểu gây ứ trệ đường niệu phía trên dẫn đến giãn đài bể thận, sau đó ứ nước tăng dần nên làm căng giãn và chèn ép nhu mô thận dẫn đến tình trạng suy giảm dần chức năng thận và mất hoàn toàn chức năng thận nếu không được xử trí kịp thời.
Nhiễm khuẩn hệ tiết niệu: như viêm bể thận thận, viêm khe thận. Tình trạng nhiễm trùng kết hợp với ứ niệu gây thận ứ mủ, hoặc hư mủ thận. Nặng hơn có thể gây ra nhiễm khuẩn huyết.
Viêm khe thận mãn tính kéo dài dẫn đến tình trạng xơ teo thận, huyết áp cao.
Suy thận: thường gặp trong trường hợp sỏi cả hai bên hệ tiết niệu hoặc sỏi trên thận đơn độc. Đây là biến chứng nặng nề có thể gặp suy thận cấp hoặc suy thận mãn và các mức độ suy thận nặng nhẹ khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của sỏi.
Viêm loét và xơ hoá tại vị trí sỏi, đây là nguyên nhân gây chít hẹp đường niệu sau khi đã phẫu thuật lấy sỏi.
Điều trị
Có 2 hướng điều trị. Thứ nhất, phá huỷ vào cho thải ra ngoài đối với những viên sỏi đã hình thành. Thứ hai, tạo điều kiện để sỏi không hình thành. Thuốc có thể hòa tan những viên sỏi có kích thước không quá 0,5cm, đôi khi chỉ cần liệu trình 2 – 6 tháng là đủ. Thuốc phải do bác sĩ chỉ định vì việc lựa chọn thuốc tuỳ thuộc vào thành phần sỏi. Không phải sỏi nào cũng có thể hòa tan và thải ra ngoài được.
Trong vài thập niên gần đây đã có nhiều thay đổi trong các phương pháp điều trị sỏi tiết niệu: nghiêng về nội khoa, tán sỏi hơn là can thiệp phẫu thuật.
Thầy thuốc chọn các phương pháp điều trị dựa vào vị trí của sỏi, kích thước của sỏi, thành phần của sỏi, mức độ tắc nghẽn, chức năng thận, nhiễm khuẩn, cường độ và tần suất xuất hiện đau.
Hầu như tất cả các loại sỏi, không phụ thuộc vào kích thước và thành phần, có thể lấy ra mà không cần phẫu thuật. Hiện nay, người ta thường áp dụng phương pháp mổ nội soi hoặc dùng thiết bị chuyên dụng để nghiền nhỏ sỏi trong thận và ống tiểu. Sóng điện từ trong điều trị sỏi thận được điều chỉnh ở tần số phù hợp để có thể xuyên qua mô cơ thể mà không gây tổn thương. Sóng điện từ sẽ phá huỷ sỏi thành những hạt nhỏ để có thể thải ra theo đường tự nhiên.
Việc can thiệp bằng phẫu thuật chỉ áp dụng khi sỏi có hình thù phức tạp kiểu san hô hoặc số lượng nhiều. Trên cơ sở khám xét thực tế, bác sĩ phẫu thuật là người quyết định có cần lấy sỏi ra hay không. Nếu sỏi nhỏ, trong một thời gian dài không to lên và không gây biến chứng thì có thể để nguyên một thời gian. Tuy nhiên, phải theo dõi thường xuyên hằng năm bằng cách siêu âm, xét nghiệm máu và xét nghiệm nước tiểu phân tích các chỉ số sinh hóa, khi cần có thể tiến hành chụp Xquang hệ tiết niệu.
Việc uống đủ nước, nhất là khi thời tiết quá nóng bức hoặc làm việc nặng trong môi trường có nhiệt độ cao, phòng tránh và điều trị tốt các bệnh nhiễm khuẩn đường tiết niệu, có một chế độ ăn hợp lý, không quá nhiều các sản phẩm có canxi và các chất có thể gây sỏi… là chúng ta có thể tránh được căn bệnh gây nhiều tác hại và đang là tiêu điểm của dư luận như hiện nay.
Theo Suckhoedoisong