Viêm tụy cấp là tình trạng viêm cấp tính ở tụy do hoạt hóa các proenzyme ngay tại tụy gây ra sưng, phù nề tổ chức tụy hoặc nặng hơn nữa là gây ra chảy máu, hoại tử trong nhu mô tụy. Có khoảng 80% viêm tụy cấp có nguyên nhân, 20% không rõ nguyên nhân. Ở Việt Nam, viêm tụy thường do sỏi hoặc do giun đũa chui vào ống tụy, tuy nhiên trong những năm gần đây tỷ lệ viêm tụy cấp do rượu đang tăng lên một cách rõ rệt.
Hình ảnh tuyến tụy trong cơ thể
Dấu hiệu nhận biết
Khởi phát cấp tính, đột ngột với cơn đau bụng cấp là triệu chứng chính thường gặp. Đau từ nhẹ đến nặng mà bệnh nhân không chịu nổi, đau thường xuyên và có cơn trội hẳn lên. Đau ở vùng thượng vị và ở vùng quanh rốn hoặc hạ sườn trái, tương ứng vùng tụy, đau lan lên ngực trái hoặc ra sau lưng, đau tăng khi nằm ngửa, giảm khi cúi gập mình ra phía trước. Đau có thể làm bệnh nhân vật vã bất an, toát mồ hôi hoặc choáng ngất. Với biểu hiện đau này gần giống với đau bụng cấp trong bệnh lý dạ dày tá tràng, nhất là xuất hiện sau khi uống rượu bia nhiều sẽ làm cho người bệnh chủ quan không đi khám ngay và nhiều trường hợp đã để lại những hậu quả nghiêm trọng. 70 – 80% các trường hợp có nôn.
Toàn thân có hội chứng nhiễm khuẩn, với các biểu hiện như sốt, đau đầu, môi khô, lưỡi bẩn; nhất là trong trường hợp do giun và sỏi có thể xảy ra ngày đầu hoặc ngày thứ hai, còn trong viêm tụy cấp do rượu, nhiễm khuẩn thường đến muộn sau 5 – 7 ngày do bội nhiễm.
Ngoài ra, nếu trong trường hợp có viêm tụy cấp hoại tử thì có thêm các biểu hiện khác như mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ, đầu chi lạnh, tím tái…Muộn hơn có thể có biểu hiện suy tim, vàng mắt, suy thận cấp… Một số trường hợp có biểu hiện thiếu canxi, ngón chân tay co quắp do canxi máu giảm nhanh và đột ngột.
Nguyên nhân đa dạng
Có nhiều yếu tố nguyên nhân trong bệnh sinh viêm tụy cấp, nhưng cơ chế chủ yếu của viêm tụy cấp đến nay vẫn chưa được hoàn toàn biết rõ. Trong đó có một vài lý do hay được nhắc đến:
Viêm tụy cấp và sỏi mật. Nhiều trường hợp viêm tụy cấp có sỏi mật kèm theo. Do về mặt giải phẫu giữa đường mật và ống tụy có chỗ đổ chung nhau nên một số trường hợp sỏi mật làm tắc ống tụy dẫn đến ứ đọng và gây nên viêm tụy. Mặc dù còn nhiều vấn đề nghiên cứu chưa thấy rõ về mặt sinh bệnh học nhưng mối liên quan giữa sỏi mật và viêm tụy cấp được nhiều các tác giả ủng hộ. Cũng tương tự như vậy, nếu có giun trong đường mật, chui xuống làm tắc nghẽn chỗ đổ chung này sẽ gây nên viêm tụy.
Viêm tụy cấp do rượu cũng hay gặp. Người ta đã nghiên cứu và thấy rằng rượu làm tăng độ tập trung protein trong dịch tụy, sự lắng đọng protein sẽ dẫn đến hiện tượng vôi hóa, viêm tụy. Tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Viêm tụy cấp còn có thể gặp sau phẫu thuật ổ bụng, đặc biệt là các phẫu thuật ở đường mật và dạ dày. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như nhiễm khuẩn (sau quai bị, viêm gan virut), do dùng thuốc (thuốc lợi tiểu thiazid, furosemid, thuốc ngừa thai…).
Chẩn đoán có khó?
Khi xét nghiệm thấy nồng độ amylase trong máu và nước tiểu tăng cao. Mặc dù không phải là xét nghiệm đặc hiệu cho riêng bệnh viêm tụy cấp nhưng nếu bệnh nhân có các triệu chứng điển hình, kết hợp với nồng độ amylase cao sẽ nhiều khả năng hướng tới chẩn đoán viêm tụy cấp.
Nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời, viêm tụy cấp có thể diễn biến thành hoại tử tụy, thường hoại tử tụy ít khi khu trú mà lan rộng do hiện tượng tự tiêu của tuyến tụy dưới tác động của các men tiêu protein và lipid được hoạt tác ngay trong lòng tuyến tụy. Tiếp theo đó sẽ dẫn đến chảy máu tụy, thậm chí gây hoại tử tụy các tạng xung quanh như hoại tử mạch mạc treo gây chảy máu trong ổ bụng, gây thủng tá tràng, đại tràng… muộn hơn sẽ biến chứng thành áp-xe tụy. Bệnh nhân tử vong do chảy máu, sốc nhiễm khuẩn, tỷ lệ tử vong do viêm tụy cấp có thể tới trên 15% và tử vong trong viêm tụy cấp do rượu cao gấp 3 lần so với tử vong trong viêm tụy cấp do sỏi hoặc giun.
Điều trị và dự phòng như thế nào?
Phần lớn viêm tụy cấp là thể phù (85 – 90%), điều trị chủ yếu bằng phương pháp nội khoa và bệnh sẽ thoái triển sau 5 – 7 ngày. Các biện pháp thông thường là: hút dịch vị, nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch khi các triệu chứng đau giảm nhiều mới bắt đầu cho ăn dần, bắt đầu là nước đường, rồi hồ đường, rồi cháo để giảm sự tiết dịch tụy; bù nước và điện giải để đảm bảo thăng bằng kiềm toan, tùy theo điều kiện và nguyên nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định cho dùng các loại thuốc giảm tiết, kháng sinh cho phù hợp.
Ở bệnh nhân có tiền sử sỏi hoặc giun chui đường mật, hoặc sau bữa ăn thịnh soạn có sử dụng nhiều rượu, mà xuất hiện đau bụng cấp, cần đến ngay cơ sở y tế nơi gần nhất để khám và điều trị hợp lý, kịp thời tránh các biến chứng đáng tiếc có thể xảy ra.
Theo suckhoedoisong